Trầu Têm Cánh Phượng

Thương hiệu: Công Ty Cổ Phần TM Dịch Vụ Tâm Linh

HOTLINE: 1900-866815

Trầu têm cánh phượng là hình ảnh đẹp, gợi về truyện cổ tích Tấm Cám và tục ăn trầu đã trở thành tập quán, truyền thống của dân tộc Việt. Từ xa xưa, miếng trầu đã đi vào thơ ca, huyền thoại, cổ tích… phản ánh nhiều nét đẹp văn hóa, thăng hoa tình cảm, tình yêu thương con người, hình thành văn hóa vùng rõ rệt.

Trước hết, miếng trầu gợi về những sự tích, những câu chuyện cổ được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, mang đậm bản sắc dân tộc. Truyện Trầu cau, qua truyền miệng thêm bớt của nhiều thế hệ, những tình tiết “nguyên thủy” đã được khoác cái áo của lễ giáo cho phù hợp với đạo Khổng – Mạnh. Đến nay, chủ đề của Trầu cau lại trở thành câu chuyện luân lý, đạo đức, khuyên con người xích lại gần nhau hơn, vị tha hơn để sống chan hòa, nhân ái trong cuộc sống hội nhập.

Trầu Têm Cánh Phượng

Câu chuyện Trầu cau khép lại bằng tục ăn trầu – một phong tục truyền thống của nhân dân ta để tô đậm tình cảm sắt son, thủy chung đẹp đẽ. Miếng trầu bao giờ cũng là “đầu câu chuyện” để bắt mối lương duyên và những khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, ma chay… đều không thể thiếu miếng trầu. Vì thế mà truyện Trầu cau đã bất chấp thời gian mà sống mãi với nhân gian.
Hình tượng trầu têm cánh phượng của cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám cũng có từ rất xưa. Truyện được nảy sinh từ vùng đất Kinh Bắc. Vì thế, cô Tấm có dáng dấp của Chị Hai quan họ. Rất hiếu thảo, duyên dáng, tình tứ và khéo léo. Miếng trầu của cô Tấm đã trở thành một hình tượng đẹp, có sức quyến rũ độc đáo và mang đậm sắc thái văn hóa vùng, rất đáng trân trọng. Miếng trầu têm cánh phượng còn mang nét đẹp biểu trưng, đầy tự hào của người Kinh Bắc. Có thể nói, mỗi câu chuyện đều thắm đượm tình người, có giá trị nhân bản và nhân văn sâu sắc.
Trầu là món ăn không giải quyết việc đói, no. Người ta ăn trầu là để thưởng thức vị cay thơm của lá trầu không, vị chát của vỏ, vị ngọt bùi của cau, vị nồng nàn của vôi… tất cả hòa quyện với nhau trong một màu đỏ sẫm. Nhiều người ăn trầu đã thành thói quen, rồi thành nghiện-nghiện trầu. Nhưng điều kì diệu của thói nghiện trầu phải chăng là ở chỗ, người ăn thấy nó gắn bó với số phận con người; bởi tách riêng, thì cay đắng, éo le, nhưng khi đã hòa chung thì tình cảm của họ lại thắm tươi, đẹp đẽ:


“Tách riêng, thì đắng, thì cay.
Hòa chung, thì ngọt, thì say lòng người.
Tách riêng, xanh lá, bạc vôi.
Hòa chung, đỏ thắm máu người, lạ chưa?
… Chuyện tình ngày xửa, ngày xưa!…”.
(Sự tích Trầu cau – Hồng Quang)


Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu rất quen thuộc, dễ kiếm. Trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm, nhiều ý nghĩa. Giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có, từ Bắc chí Nam. Ăn trầu là một phong tục truyền thống, nhưng cách têm trầu thì lại mang rõ dấu ấn văn hóa của vùng miền.
Nói đến trầu têm cánh phượng là nói đến miếng trầu vùng Kinh Bắc. Cũng vẫn nguyên liệu ấy, nhưng cách têm đẹp, kiểu cách, đã thể hiện sự khéo léo của những liền chị-người gái quê Kinh Bắc. Vì thế, miếng trầu có sức hấp dẫn đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc cho bất cứ ai, dù chỉ một lần được mời.
Trong giao tiếp ứng xử, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Miếng trầu thường đi đôi với lời chào và một thái độ của người mời khách. Người lịch sự không “ăn trầu cách mặt”, nghĩa là đã tiếp, thì tiếp cho khắp – “Tiện đây ăn một miếng trầu. Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?”.
Việc mời trầu cũng thể hiện sắc thái tình cảm tinh vi, tế nhị. Quý nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự, cũng mời trầu. Ca dao có câu: “yêu nhau cau sáu bổ ba; ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Còn không có trầu mà tiếp khách vẫn mời trầu như Nguyễn Khuyến, là một trường hợp lạ – “Đầu trò tiếp khách, trầu không có. Bác đến chơi nhà, ta với ta”.
Đặc biệt nữa là miếng trầu hôi đãi khách của Hồ Xuân Hương. Miếng trầu có cái gì thật khác thường, chất chứa đầy sự thách thức và một bản lĩnh của người mời:


-“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi.
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại.
Đừng xanh như lá bạc như vôi”.
(Mời trầu – Hồ Xuân Hương)


Bài thơ chưa đưa nữ sĩ vào con đường tuyệt vọng, nhưng vẫn ngân lại trong lòng người một nỗi buồn lai láng. Nó phản ánh số phận không mấy suôn sẻ, thể hiện bản lĩnh người phụ nữ trong cuộc sống của xã hội tự khiêm.
Nét đặc trưng tiêu biểu của miếng trầu là được dùng nhiều trong lối ứng xử giao duyên giữa trai thanh gái lịch và được thể hiện khá nhiều trong thơ ca:
-“Trầu vàng nhá lẫn cau xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời”.
(Ca dao)
Có thể tình yêu làm họ gắn bó, hòa quyện, cùng nhau làm nên cái mùi vị thơm cay, cái hơi nóng bừng, cái sắc đỏ đẹp tươi ấy: “Có trầu mà chẳng có cau. Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm!”; hoặc “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?”… (Tương tư – Nguyễn Bính).
Mời trầu không ăn, thì trách móc nhau: “Đi đâu cho đổ mồ hôi; chiếu trải không ngồi, trầu để không ăn; – Thưa rằng bác mẹ tôi răn! Làm thân con gái, chớ ăn trầu người” – (Ca dao). Một khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, để tán tỉnh:
– “Từ ngày ăn phải miếng trầu,
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.
– Một thương, hai nhớ, ba sầu,
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi”.

#Trầu Têm #Trầu Têm  #Trầu Têm  #Trầu Têm 

icon icon icon